Giới thiệu
Trong cuốn “tiểu thuyết” viết tặng các sơn binh Pháp và Ý ngã gục trên dãy núi Alpes vào tháng Sáu buồn thảm dạo nào của năm 1940 này, tất cả đều đúng sự thật: thời gian, con người, sự kiện, cảm xúc, không gian. Các nhân vật là những quân sĩ thám phòng, những khinh bộ binh của các tiểu đoàn Edolo, Morbegno, Tirana, Verona, họ mang tên thật, mặt thật. Nhiều người Ý trong số đó về sau ngã gục ở miền núi Hy Lạp hay trên các cánh đồng cỏ hoang vu ở Nga. Chỉ có bọn họ, bọn người chết đó, bọn người chết đáng thương của Pháp và Ý, mới đem lại cho cuốn “tiểu thuyết” này cái giọng thức tỉnh, cái âm sắc tuyệt vọng, cái tiếng nói buồn bã quạnh quẽ. Chỉ có bọn họ mới cho cuộc chiến mê muội kia cái ý nghĩa bi đát trong tính vô ích của nó. Nếu những người chết ấy có được một công ích gì, thì cuộc chiến mê muội kia đã xoay chiều ra sao? (Với bao tàn ác vô ích, giết chóc vô ích và đổ nát vô ích, cuộc chiến tranh đó hiện nguyên hình một công trình pháp lý hung tàn phanh phơi sự góp mặt cần thiết, sự dự phần tiếp tay không thể thiếu của Thượng đế.) Lũ người chết vô ích: chỉ có thể biện giải theo cách đó thôi. Từ nay ta cần phải nói, không phải nể nang người sống làm gì, rằng chẳng có một cái gì ở châu Âu xứng đáng để ta phải chết. Cũng chẳng đáng phải chết để chứng tỏ rằng chết là vô ích, rằng cái chết chẳng dùng vào việc gì, chẳng cứu giải được gì, rằng thắng trận có lẽ còn vô đạo đức hơn bại trận; mà cũng chẳng cần chết mới chứng tỏ rằng đứa chết xứng đáng hơn đứa sống. (Vâng, nghiễm nhiên sự thắng trận là một điều nhục nhã. Ở châu Âu, còn gì cho chúng ta đâu, ngoại trừ niềm an ủi đến với chúng ta từ đạo Ki tô.)
Tóm lại một trận giặc chẳng có phong điệu mã thượng, chẳng hoa mỹ, chẳng khoa trương. Tóm lại, than ôi, một trận chiến chẳng chút vinh quang. Một trận giặc có Hector tuẫn tiết dưới chân Achille, Achille hy sinh thân mình cho mấy ngọn cờ treo trên hàng bao lơn, trong khi đám đông bên cửa sổ nhổ nước bọt đầy mình Achille mà hò reo: đồ hèn nhát. Một trận giặc vô vọng, dưới Mặt trời lãnh đạm, trơ ra, đui mù trước bao nỗi thống khổ của con người. Xin mặt trời soi sáng hành động con người: ta không thể đòi hỏi điều gì khác hơn. (Mặt trời, trong “tiểu thuyết” này, giống như Mặt trời theo người xưa, có khi là Thần Mộc vương, có khi là thần Apollon, hay là Thần Chết, Thần Chết rỡ ràng sinh ra sự sống; Mặt trời cùng một ý nghĩa như Caïa trong pho thần học thô sơ nào đó của thời Trung cổ, trong một số nghi thức tế lễ bình dân nào đó của Tây Ban Nha, cái ý nghĩa của kẻ Tội phạm lạnh lùng, của tên Sát nhân hung ác lừng danh, gieo rắc diệt vong, giống như Apollon trong thần thoại Thèbes.) Ta không thể đòi hỏi Mặt trời khổ lụy theo ta, động lòng vì những nỗi khổ của ta. Ta không thể đòi hỏi Mặt trời từ tâm, công chính, xót thương. Mặt trời mù. Cuối cùng chúng ta cũng thế, có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử tối cổ, chúng ta nay không được tiếp cứu, không thoái thác, không biện bạch, dưới con mắt mù lòa của Định mệnh, dưới con mắt nhìn chằm chặp vào chúng ta mà nào thấy chúng ta, nó sáng rực, vô cảm, ở ngoài và ở trong chúng ta, đâm bổ xuống đầu, đâm bổ vào tận cùng ý thức chúng ta. Và, kêu gọi đấng Ki tô đối phó với con mắt trắng dã mù lòa kia làm gì vô ích, con mắt không mày không mi, im sững giữa khung trời hoang vắng của ý thức.
Trong “tiểu thuyết” này đặt ra một bi kịch ngoại lệ cho dân tộc Ý: cái dân tộc cảm thấy có lẽ là lần đầu tiên trong suốt trọn bước diễn tiến của lịch sử tối cổ của chúng ta, rằng họ bị đặt ra ngoài cái ý thức luân lưu của thế giới, cái dân tộc chỉ còn có nước căn cứ vào ý thức bản thân mà thôi, không còn căn cứ vào ý thức thế giới; phải trở thành vị quan tòa cho chính mình, và tìm lấy trong bản thân một cách thức mới, mang tính gỡ tội hơn, để làm một kẻ có đạo; lại còn cũng phải thanh toán một số vấn đề với ý thức chủ thể nữa. Vì chưa bao giờ như trong trận chiến cuối cùng, đặc biệt vào tháng Sáu 1940, trong chuỗi ngày vô cùng buồn thảm của cuộc xung chiến vì bội bạc, trận xung chiến đê hèn, mê muội, độc ác, đánh lại nước Pháp đã thua trận và tủi nhục, chưa bao giờ dân tộc Ý ý thức sâu xa và hào hùng cái hạn độ lỗi lầm và sự vô tội của mình đến như thế, chưa bao giờ họ nhục nhã như thế, nhục nhã cho mình, cho thân phận làm đối tượng chứ không phải làm chủ thể, nhục nhã cho lịch sử mình, cho sự quy hàng đau đớn trước lịch sử của mình như thể quy hàng một sự kiện xa lạ với ý thức nó.
Khởi đầu từ tháng Bảy 1940 trên ngọn Bạch Sơn (Mont Blanc), tại chỗ đồn trú nhỏ bé tên gọi Guédoz (một ngôi nhà đá nhỏ, độc một gian không có cửa sổ, trên đèo Seigne, gần như bị tuyết phủ lấp), và xong xuôi vào tháng Tám cùng năm ở làng Morgex, trong thung lũng Aoste, nơi đây trung đoàn thứ năm - tôi làm đại úy - được hưởng những thời kỳ nghỉ ngơi, cuốn Mặt trời mù ra mắt dưới hình thức đăng nhiều kỳ trên tạp chí Thời đại tháng Giêng và Hai năm 1941. Nhưng một vài chương bị kiểm duyệt bỏ: đó là chương III và hai chương sau cùng XVII và XVIII trong bản thảo. Chương III gồm có phần kể về một giai đoạn minh chứng đặc biệt tình thương, tình cảm mến đối với nước Pháp và sự phản kháng tinh thần của dân làng Morgex và lính khinh bộ các tiểu đoàn Edolo, Tirana và Morbegno đối với chiến trận mê muội đó. Ngày 10 tháng Sáu 1940, đạo khinh bộ thứ năm được lệnh chỉnh đốn hàng ngũ tại quảng trường làng Morgex (lúc bấy giờ tên là Valdigna d’Aosta) để nghe diễn từ của Mussolini. Quảng trường tràn ngập đám người lặng im cùng những binh lính khinh bộ vừa tuyển. Khi giọng Mussolini tuyên bố khai chiến với Pháp, dân làng Morgex bật khóc thành tiếng và nhiều tiếng la ó phản đối vang dậy từ hàng ngũ khinh bộ binh. Nhiều bản thông tư tối cơ mật đến tay những viên chỉ huy trung đoàn rồi truyền xuống chỉ huy đại đội, thông tư khuyến cáo sĩ quan đề phòng và thủ thế sẵn sàng báo động hoặc dẹp yên mọi hành vi bất phục tùng. Mussolini không lấy làm an tâm về lòng chính trực của binh lính. Trung đoàn khinh bộ thứ tư, do vị đại tá Magliano kiêu hùng chỉ huy, còn bị hăm dọa tách xa tiền tuyến trong mấy ngày đầu của trận chiến, bởi vì Mussolini không tin họ. Ngờ vực lòng chính trực của khinh bộ binh là điều không đúng: khinh bộ binh là những người chính trực, ở cương vị con người cũng như quân nhân. Trong những ngày buồn thảm ấy, họ không che giấu tình cảm: lòng họ theo về với nước Pháp bị ám hại, bị bại trận. Sơn binh khinh bộ về mùa đông có thói quen di cư, tìm việc làm ở Thụy Sĩ, ở Pháp, ở Bỉ. Họ yêu các dân tộc vừa kể, nơi mà tự ngàn xưa họ tìm thấy việc làm, tự do, sự tôn trọng. Họ lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh mê muội và rất hèn nhát đó, họ không muốn giết chết bạn đồng lao cộng tác với mình. Nhưng trong toàn bộ sư đoàn Tridentina, toàn bộ sư đoàn Taurinense, trong toàn bộ binh đoàn khinh bộ của tướng Negri, không có lấy một trường hợp đào ngũ nào. Lính sơn binh là những người chính trực. Chúng tôi leo lên ngọn Bạch Sơn, vượt biên giới, trong cơn bão tuyết, 3.600 thước trên dòng Đệ nhất Băng hà, chúng tôi xuống sâu thung lũng trên đất Pháp về hướng đồn Seloge, dưới lửa đạn đại bác: trong lòng chúng tôi thêm vào một niềm khắc khoải, một sự hạ mình, một điều sỉ nhục đáng buồn. Chúng tôi không phải là bọn giết người đi “đâm sau lưng” một dân tộc đã mang thương tích, đã quỳ gối xuống, đã bị bao kẻ khuất phục: chúng tôi thà làm bọn người buồn nản và bị bôi nhục rồi đây đi làm mồi một cách vô ích cho mấy họng đại liên của đồn Seloge, cho các giàn pháo ở đèo Fours. Lũ người chết đi của chúng tôi không có cái sắc mặt xanh xao với đôi mắt trợn trừng của bọn giết người; chỉ có khuôn mặt trắng dã và ngu si của bọn bị giết. Cùng một mũi dao đã cắm xuống giữa hai vai bọn lính Pháp và Ý vào tháng Sáu 1940.
Hai chương cuối, XVII và XVIII, bị kiểm duyệt bỏ bởi mối cảm mến đối với Pháp và sự phản đối của lương tâm đứng trước sự giết người ô nhục và mê muội đã được phô diễn quá lộ. Tôi chỉ có một bản chép tay. Dù sau này có tìm kiếm, khi chiến tranh đã kết thúc, tại phòng kiểm duyệt của bộ Văn hóa đại chúng, tôi không sao tìm lại được ba chương sách bị bỏ. Đáng lẽ tôi có thể tìm cách viết lại mấy chương ấy: nhưng tôi đã chọn in Mặt trời mù thành sách y nguyên như nó đã ra mắt làm nhiều kỳ trên tạp chí Thời đại, tuy nhiên nay tôi có bỏ bớt, vì vô ích, lời cước chú mà trước tôi thấy cần phải báo cho độc giả Thời đại biết rằng chữ “Còn nữa” in dưới chương XVI trước kia đã để nhầm vào chỗ chữ “Hết”.
Quý vị độc giả chắc cũng hiểu những lý do khiến tôi tuyên bố ở đây rằng, trong toàn bộ mảng văn chương Ý về cuộc chiến tranh này, được viết ra và ấn hành đang khi cuộc chiến, trong thời buổi mà việc nói lên sự thật về tấn bi kịch đau lòng diễn ra trong lương tâm dân tộc Ý, binh sĩ Ý là một điều nguy hiểm, thì có mỗi một tài liệu, độc nhất, trong đó, “tấn bi kịch bị cấm chỉ” được phơi mở: tài liệu đó chính là Mặt trời mù, người ta dễ có thể nghi ngờ giá trị nghệ thuật của nó, nhưng sẽ không một ai, dù là với ác tâm, có thể làm giảm giá trị tinh thần của nó. Ngày nay thì dễ quá, ở Ý, việc lên án cái “mũi dao” đâm sau lưng nước Pháp: chẳng phải lỗi tôi nếu có “mũi dao đâm sau lưng” vừa nói, chỉ có tôi trong hàng bao nhiêu văn sĩ Ý, kể cả phát xít và chống phát xít, là kẻ dám lên án công khai, đang giữa thời chiến, cái mũi dao đó.